Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Ở Việt Nam, nhãn hiệu được bảo hộ kể từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký Nhãn hiệu (văn bằng). Việc không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu mang lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho chủ sở hữu hàng hóa, dịch vụ.
Khi được pháp luật bảo vệ
Pháp luật quy định
Luật Sở hữu trí tuệ quy định
Điều 125. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
- Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Luật Thương mại quy định:
Điều 284. Nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
- Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Bộ luật dân sự quy định:
Điều 115. Quyền tài sản
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
Luật Doanh nghiệp quy định:
Điều 34. Tài sản góp vốn
- Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.
- Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản quy định tại khoản 1 Điều này mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật.
Từ các quy định trên cho thấy
- Căn cứ khoản 1 điều 125 Luật sở hữu trí tuệ, không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thì chủ sở hữu không có quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu. Do đó ai cũng có thể sử dụng nhãn hiệu trùng, tương tự gây nhẫm lần với hàng hóa, dịch vụ của chủ nhãn hiệu, dẫn tới bị mất thị trường. Đây là hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu nhưng do nhãn hiệu không đăng ký bảo hộ nên không xử lý được hành vi xâm phạm quyền nhãn hiệu.
- Căn cứ điều 284 Luật thương mại, không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thì nhượng quyền thương mại rất rủi ro, bởi nhãn hiệu là đối tượng của nhượng quyền nhưng ai cũng được sử dụng, không những vậy, nhượng quyền thương mại cũng là một thủ tục phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về công thương, việc không đăng ký nhãn hiệu sẽ gây khó cho thủ tục nhượng quyền.
- Căn cứ điều 115 Bộ luật dân sự cho thấy nhãn hiệu là một quyền tài sản thuộc phạm vi tài sản. Do đó, không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu thì không thể tặng cho, góp vốn, để thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự.
- Căn cứ điều 34 Luật doanh nghiệp thì quyền sở hữu trí tuệ – bao gồm nhãn hiệu, là một loại tài sản có thể định giá được bằng tiền và có thể sử dụng để góp vốn thành lập doanh nghiệp, hợp tác kinh doanh. Việc không đăng ký bảo hộ sẽ làm hạn chế hoặc thậm chí mất đi quyền góp vốn, hợp tác kinh doanh này.
Thực tế ngoài các quy định trên, pháp luật còn quy định rất nhiều về phạm vi toàn quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu liên quan tới tên miền, trách nhiệm hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại khác. Nhưng chỉ với các điểm trên đã thấy rằng, không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sẽ mang lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho chính người tạo ra nhãn hiệu, và có những trường hợp không thể vãn hồi.